Góp ý cho dự thảo Chiến lược phát triển khoa học công nghệ, các nhà khoa học cho rằng Việt Nam cần lựa chọn lĩnh vực trọng tâm để đầu tư, giải bài toán thực tế.
Chiều 13/10, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức hội nghị góp ý dự thảo Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (Chiến lược) giai đoạn 2021 – 2030. Dự thảo Chiến lược do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì soạn thảo. Ông Bùi Thế Duy, Thứ trưởng là Phó trưởng ban soạn thảo, Tổ trưởng Tổ biên tập. Dự thảo đang trong quá trình lấy ý kiến để hoàn thiện, dự kiến tháng 11 sẽ trình Chính phủ.
Ông Bùi Thế Duy cho biết, khi xây dựng Chiến lược Ban soạn thảo xác định chọn một số lĩnh vực có lợi thế để tập trung đầu tư. “Ban soạn thảo rất muốn lắng nghe ý kiến các nhà khoa học về việc chọn lĩnh vực nào làm mũi nhọn tập trung đầu tư trong giai đoạn tới”, thứ trưởng Duy nói.
GS Nguyễn Năng Định, Đại học Quốc Gia Hà Nội đưa ra 7 lĩnh vực nên đưa ra để phát triển mũi nhọn, trong đó có công nghệ giao thông, chế tạo máy, nông lâm ngư nghiệp trong đó có nông nghiệp xanh sạch, khoáng sản – dầu khí, luyện kim và vật liệu tiên tiến, y sinh, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, cuối cùng là giáo dục – đào tạo.
GS Lưu Văn Bôi, Đại học Quốc gia Hà Nội nêu quan điểm, nước ta còn nghèo, tiềm lực khoa học công nghệ còn yếu, không thể đầu tư tất cả các lĩnh vực. Do đó cần phải chọn ra một số lĩnh vực ưu tiên.
Biến đổi khí hậu là vấn đề GS Bôi, cho rằng cần ưu tiên đầu tư trọng tâm trong giai đoạn tới. Ông cho rằng, sự tồn tại của Đồng bằng sông Cửu Long, vấn đề ngập mặn, mưa lũ tàn phá miền Trung, sạt lở ở miền núi… thiết thân với người dân. Tiếp đến, ông Bôi cho rằng dịch bệnh, y tế công cộng, các lĩnh vực phi truyền thống… cần được quan tâm giải quyết bằng khoa học công nghệ.
“Phát triển công nghệ không có nghĩa là chạy đua mà không phù hợp. Công nghệ phải đưa được vào sản xuất, ai cũng hiểu, dùng được. Đầu tư phải có trọng điểm”, GS Đinh Văn Bôi nói.
Liên quan đến đầu tư khoa học trọng điểm, GS Lê Huy Hàm cho rằng hệ thống khoa học công nghệ trong nước quá lớn, cồng kềnh nên ngân sách không thể đảm bảo đầu tư tới hạn để phát huy hiệu quả. Do vậy, để chuyển dịch từ ứng dụng công nghệ sang sáng tạo ra công nghệ, cần có cơ chế tài chính phù hợp, hấp dẫn để thu hút nguồn nhân lực. Chỉ tập trung đầu tư vào những đề tài công nghệ có tính ứng dụng cao, đem lại hiệu quả. “Để thành công, một mình Bộ Khoa học và Công nghệ không làm được”, ông Hàm nói và cho rằng cần có sự đồng lòng của cả hệ thống.
Tại hội nghị các ý kiến cũng góp ý thêm các vấn đề xây dựng cơ chế tài chính, chọn doanh nghiệp làm trung tâm, gắn đào tạo và nghiên cứu…
Theo Thứ trưởng Bùi Thế Duy, xu thế chung thế giới, trong hệ thống đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp là trung tâm. Chiến lược này của Việt Nam cũng đi theo hướng đó. Dù vậy, chủ thể nghiên cứu vẫn là các viện và trường đại học. Doanh nghiệp là đơn vị đặt hàng, đưa ra đầu bài để nhà khoa học nghiên cứu, sau đó trở lại ứng dụng vào sản xuất của doanh nghiệp.
Thực trạng ở Việt Nam, có một thời gian yêu cầu nhóm nghiên cứu phải ra được sản phẩm thương mại. Theo ông Duy, điều này là sai về quy trình. Nhà khoa học chỉ có thể đưa ra được sản phẩm trí tuệ, không thể có quy trình sản xuất hay tiềm lực đầu tư tài chính, marketing hay tính mạo hiểm như doanh nghiệp. Đó là lý do để Chiến lược lần này đưa doanh nghiệp là trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Thứ trưởng Bùi Thế Duy cho rằng, trong Chiến lược lần này, trường đại học phải là chủ thể nghiên cứu mạnh. Hiện Việt Nam có một số trường đại học đầu tư nghiên cứu, song ông Duy cho rằng, chưa thể là chủ thể nghiên cứu mạnh của hệ sinh thái. Trường đại học có nguồn lực tốt, có các thế hệ kế cận, đội ngũ sinh viên, thạc sỹ, nghiên cứu sinh… đông đảo, gắn với đào tạo. Theo đó,”các công nghệ mới, tiên tiến nhất, được ứng dụng nhiều nhất, sẽ phải ra đời từ các trường đại học”, ông Duy nói.
Tổng kết hội thảo, Thứ trưởng Bùi Thế duy cho biết ban soạn thảo sẽ tập hợp các ý kiến để chắt lọc, chỉnh sửa dự thảo Chiến lược khoa học và phù hợp nhất với thực tiễn.
Một số mục tiêu đến năm 2030:
Dự thảo Chiến lược đặt mục tiêu chung, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng.
Mục tiêu cụ thể: Duy trì và nâng cao đóng góp của KHCN, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng kinh tế thể hiện qua đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức 45-50%.
Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 nước hàng đầu thế giới.
Phấn đấu tổng chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển đạt 1-2% GDP, trong đó đóng góp từ xã hội chi cho nghiên cứu phát triển chiếm từ 65-70%.
Số cán bộ nghiên cứu phát triển (quy đổi toàn thời gian) đạt 12 người/vạn dân.
Hệ thống tổ chức KHCN được cơ cấu lại theo hướng tự chủ, liên kết, tiếp cận chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả. Đến năm 2030 có 60 tổ chức KHCN được xếp hàng khu vực và thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp, tỷ trọng giao dịch công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học đạt trên 40% trong tổng giao dịch công nghệ có nguồn gốc trong nước.
Số lượng công bố quốc tế tăng khoảng hai lần so với năm 2020. Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm. Số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12-14%/năm. Tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 8-10% số sáng chế được cấp văn bằng bảo hộ.