Tôi mới mang thai. Do đột ngột nên tôi chưa bổ sung acid folic nhiều. Vậy tôi cần chế độ ăn uống thế nào để tăng đề kháng cho cả mẹ và con? (Tuệ Nghi)
Trả lời: Về vấn đề bổ sung acid folic, chúng ta có thể nhìn nhận dưới hai khía cạnh.
Thứ nhất, việc này sẽ giúp giảm nguy cơ khuyết tật ống thần kinh của trẻ sơ sinh. Do đó, chúng ta phải bổ sung trước thai kỳ khoảng độ 3 tháng vì khi đã chậm kinh, nghĩa là tuần thai đã vượt qua một tháng. Thông thường, khi chậm kinh 1-2 tuần, các mẹ mới thử để biết là mình có thai.
Tuy nhiên, ống thần kinh của thai nhi đã khép từ ngày thứ 28 của thai kỳ. Như vậy, bạn có thể đã qua khoảng thời gian cần bổ sung ngay từ khi biết mình mang thai. Theo đó, tác dụng của acid folic đối với tác dụng giảm khuyết tật ống thần kinh trong trường hợp này đã là không đạt.
Thứ hai, việc bổ sung acid folic còn liên quan đến một thành phần để tạo máu. Người phụ nữ có thai rất dễ bị thiếu máu, tỷ lệ này là xấp xỉ 1/3, cứ ba người có thai thì có một người thiếu máu.
Với khía cạnh này, bạn có thể sử dụng bổ sung trong suốt thai kỳ bằng cách uống một viên đa vi chất để có được đồng thời sắt và acid folic. Mỗi ngày trong thai kỳ, bạn có thể bổ sung khoảng 600 microgram acid folic.
Người mang thai có thể bổ sung acid folic trong suốt quá trình mang thai, tùy theo nhu cầu của cơ thể. Ảnh minh họa: Freepik
Bên cạnh acid folic, để có mẹ khỏe con khỏe, trong quá trình mang thai, người mẹ cần có chế độ ăn đủ nhu cầu trong thai kỳ. Trong ba tháng giữa, bạn cần cộng thêm 400-450 kcal/ngày và 500-550 kcal/ngày đối với ba tháng cuối. Cách tính calo đơn giản là khoảng mỗi 100 gram gạo, chúng ta có khoảng 350 kcal. Như vậy, mỗi ngày, bạn có thể ăn thêm một quả trứng đối với thai kỳ giữa hay khoảng nửa bát cơm để tăng năng lượng, đủ cho thai kỳ.
Người mẹ cũng không nên nạp quá nhiều calo, dẫn tới tăng cân quá mức, cản trở quá trình chuyển hóa, khó lấy lại vóc dáng sau sinh. Đôi khi, việc thai quá to cũng dẫn tới khó sinh. Em bé quá lớn cũng có nguy cơ bị đái tháo đường sau này. Trong ba tháng đầu, thai nhi có thể lớn khoảng 100 gram, tương đương với 800 kcal. Như vậy, trong suốt ba tháng, nếu tính đơn thuần ra gạo, người mẹ chỉ cần ăn thêm khoảng 200 gram.
Lưu ý, người mang thai cần cân đối năng lượng giữa nhóm chất: đạm, béo và tinh bột. Trong đó, đạm chiếm khoảng 20% tổng năng lượng cả ngày. Ví dụ, một ngày, người mẹ ăn là khoảng 2200 kcal thì đạm chiếm 450 kcal, tức khoảng 300 gram các loại thịt, cá, trứng, đậu đỗ…
Chất béo là thành phần rất quan trọng trong việc phát triển trí thông minh cho thai nhi, đặc biệt là từ các loại hạt như hạt điều, lạc, đậu tương, óc chó… hay cá. Đó là những chất béo rất là tốt, có lợi cho việc cấu trúc não bộ của thai nhi. Trong 9 tháng mang thai mẹ đã cho bé 300 gram não ở trong hộp sọ rồi, trong khi, tổng cộng mỗi con người chúng ta chỉ có khoảng 1,4 kg não. Do đó, dù không thích, mẹ vẫn nên bổ sung chất béo. Ngoài ra, trong quá trình mang thai, người mẹ nên uống sữa nguyên kem.
Về chất bột đường, nếu không ăn, mức đường huyết của mẹ sẽ dao động và không cung cấp ổn định năng lượng cho não bộ cho thai. Vì vậy, chế độ ăn của người mang thai cần khoảng 50-55% tổng năng lượng ấy. Nếu không nạp đủ, em bé sẽ đạp rất nhiều mỗi khi đói.
Thứ tư, người mẹ cần bổ sung rau củ, quả để bổ sung chất xơ, tránh bị táo bón. Vốn dĩ người mang thai đã dễ gặp tình trạng này, nếu như ngại ăn rau, táo bón sẽ càng nặng hơn, gây ảnh hưởng đến cả mẹ và bé.
Ngoài ra, người mang thai cũng nên chú ý bổ sung calci từ tháng thứ tư; sắt và acid folic tùy theo tình trạng máu; DHA để cho bé thông minh hơn.
Thầy thuốc nhân dân, PGS. TS. BS. Lê Bạch Mai
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, Giám đốc Y khoa Nutrihome miền Bắc